Nghiêng mình, sau khi hạ cửa kiếng, tay kia búng mạnh điếu thuốc đang hút dở
nửa chừng, đóm lửa vạch một đường cong ra xa rồi tắt hẳn giửa cơn tuyết đang rơi.
Tân rùng mình bởi cơn lạnh đang lùa qua kẻ hở tạt vào trong xe, miệng lẩm bẩm "
Lại một mùa đông đang tới và các ngày dài chống chọi với thiên nhiên, bảo rơi,
tuyết phủ nữa rồi ". Mỗi lần ra đường cứ như những phi hành gia, đầu đội nón,
chân mang giày boots, tay mang găng, mình mẩy che kín chỉ chừa đôi mắt để thấy
đường lái xe mà thôi. Đôi lúc trời càng lạnh, nước mắt càng chảy nhiều, gặp lạnh
đông cứng, các hàng lông nheo dính chặt lẫn nhau, càng khó chịu. Tân mỉm cười
với ý nghĩ ngộ nghĩnh của mình. Bên trong hơi lạnh làm
mờ các cửa kiếng, đọng
thành các khoảng lem luốt khó quan sát bên ngoài, nhất là lái xe khi tuyết rơi
như lúc nầy. Sau khi đóng vội cửa kính,Tân thu mình, làm cử động nhỏ cho bớt
lạnh, hai tay nắm chặt tay lái, co mình nhìn phía trước. Chiếc xe tuần trước đã
vô garage một ngày, sửa chửa đủ thứ bệnh, hình như vẫn chưa đầy đủ để chiến đấu
với mùa đông ác nghiệt. Xe càng cũ càng lắm bệnh. Hơi sưởi không lên để đủ ấm,
dù bên ngoài đôi quạt kiếng làm việc không ngừng để đẩy lui các mảng tuyết càng
ngày càng dầy, do đó bên trong xe càng lạnh hơn. Đây là đoạn đường vắng vẻ, bảng
chỉ đường cắm bên lề báo trước sắp đến khúc quanh, xuyên qua ngọn đồi để sau đó
nối liền với xa lộ phía trước, con đường quen thuộc về nhà. Chất men rượu giờ
nầy mới thấm vào cơ thể làm mặt Tân nóng bừng, đầu hơi cháng váng, nhưng chàng
cũng ráng nhận diện khoảng đường phía trước, giử vận tốc vừa phải, hai tay kìm
chặt tay láI không biết vì tuyết trơn trợt hay men say làm hai tay chàng rung
không ngừng. Hàng trăm ngọn đèn đỏ từ đuôi xe, chi chít, nhút nhích tiến dần về
phía trước, dưới cơn tuyết lất phất rơi đều trên mặt kiếng làm thành những đóm
trắng phút chốc tan thành nước chảy xuống thành xe. Tân nhớ lại lúc tiễn chân ra
cửa, nếu để Thức, bạn chung sở đưa về, giờ nầy chắc hẳn đã đến nhà hoặc đã đánh
một giấc ngủ kỹ không chừng. Sau cùng rồi Tân cũng về đến nhà, khung ảnh bán
thân của Vân được treo chính giửa căn phòng, hai ngọn đèn cầy bằng điện được
thắp sáng ngày đêm, là hình ảnh đầu tiên đặp vào mắt Tân mỗi khi chàng về đên
nhà. Đã ba mùa Xuân đi qua trong nỗi nhung nhớ, Tân vẫn chờ đợi dù một tia hy
vọng nhỏ, như đăng báo tìm người thân, nhờ bạn bè qua trung gian hội từ thiện
hay liên lạc HCR, đủ cả, nhưng Vân vẫn bặt tăm. Ngày mai là ngày giổ cũng là
ngày Tân đã mất Vân trên biển cả trong một chuyến đi định mệnh, mà ngàn đời
chàng không bao giờ quên.
Vân, người con gái đã quen Tân từ thuở thiếu thời, chơi thân nhau từ lúc còn
tiểu học trường làng, sau đó lên trung học thị xã. Quê bọn Tân ở Bến Đình là một
làng chài lưới, cách thị xã Vũng Tàu vài cây số,được bao bọc bởi dãy núi lớn như
vòng tay to lớn ngăn cản mọi trận cuồng phong, và con sông dẫn ra biển nên khí
hậu mát mẻ quanh năm. Bên kia sông là rừng sát, sình lầy, ẩm thấp, nhiều thú dữ,
nơi trấn đóng cửa quân ta trong thời gian chống Pháp. Những buổi chiều tà, nhìn
xuyên qua những chiếc lưới phơi trên những cây sào vắt ngang qua các cây cầu làm
bằng cây bần dưới ánh mặt trời đỏ lừ dần dần trôi xuống cuối chân trời là những
hình ảnh tiêu biểu của làng dân chài. Tân yêu biển từ nhỏ. Gia đình chàng từ
trên xuống dưới đều làm nghề chài lưới, cha chàng sống với biển cả nhiều hơn ở
nhà, cho nên từng khúc biển hay từng nhánh sông ông đều thuộc làu. Mỗi chuyến ra
khơi nhanh nhất là sáng đi tối về, còn chậm nhất là vài ngày tùy theo số cá đánh
nhiều hay ít hoặc tùy thời tiết.Thông thường vào mùa hè, Tân thích theo cha ra
biển để tìm cảm giác mạnh, nhất là các ngày bão tố chiếc ghe cứ hùng dũng tiến
tới trước những ngọn sóng cao hơn mui ghe, nước tràn vào lòng ghe Tân dùng gào
tát ra, cứ thế có lúc về tay không.
Gia đình Vân ở xóm Vườn cách thị xã non cây số và có ông chú ở cạnh nhà Tân
nhưng vì gia đình không con nên chú xin Vân đem vê nuôi. Nhiều khi bình minh vừa
lố dạng, Tân dục Vân thức dậy thật sớm, dùng thuyền câu chèo qua sông bên kia
rừng sát ,nơi toàn bần và sậy, bắt những con còng để luột hoặc nướng ăn rất ngon.
Loại còng nầy hình dáng như cua nhưng hai càng đủ màu to lớn gắp đôi thân mình,
tướng đi chậm chạp nhưng chạy rất nhanh mổi khi thấy bóng người.
- Tân dùng cây chận đầu trên, Vân chận phía ngược chiều thế nào cũng bắt
được.?Vân thì thầm nói như sợ tiếng động sẽ làm con vật chạy mất.
Tân cố giải thích như người nhiều kinh nghiệm:
-Vân không biết chứ loại nầy đào lổ ẩn nấp nào thì nó chui núp lổ nấy, chớ không
ờ bậy bạ, để ý coi tuy chúng bò ngang ngược tràn lan trên mặt đất, nhưng khi
thấy bóng người chúng chạy về hang rất trật tự. Tóm lại muốn bắt chúng thì để ý
con nào vừa rồi khỏi hang để kiếm mồi, Vân cứ dùng cây chận lỗ chạy về của chúng
thế nào cũng bắt được .
Nói xong không chờ nàng suy nghĩ, Tân cầm tay Vân với thanh củi khô dí vào một
lỗ hang gần nhất, chú còng thấy dáng người chạy lanh quanh tìm chỗ núp, thế là
bắt con đầu tiên và đến khi mặt trời vừa lên là bọn tôi có cả thùng còng dư dả
để nấu canh, số để luộc, còn dư đưa cho ông chú làm ba khía để dành lâu lâu ăn
với cơm nguội. Còn những buổi chiều rảnh rỗi, bọn tôi thường ra cầu ngồi chờ ghe
đánh cá trở về, xa xa những cánh buờm căng gió đẩy đoàn ghe lướt sóng, trên đó
vài người đang thu xếp chiếc lưới ngổn ngang trên mặt ghe, số khác làm sạch
những chổ rong rêu còn sót lại. Thỉnh thoảng vài cơn gió chiều nhè nhẹ làm gợn
con sóng nhẹ lăn tăn đủ màu phản chiếu bởi ánh nắng của buổi chiều tà. Có lần
Tân tâm sự:
-Không biết sao Tân yêu biển vô cùng, những lần ra khơi tự cảm thấy tâm hồn
thoải mái, trước đại dương mênh mông con người quá bé nhỏ như được che chở bởi
thiên nhiên.
-Thế những lúc bảo tố thì sao? Vân vói tay nhặt nhánh cây khô viết những chữ vô
nghĩa và vẽ các vòng tròn méo lệch, miệng thì thầm hỏi.
- Đôi lúc cũng sợ nhưng khi vượt qua rồi thì trời đẹp hơn bất cứ lúc nào, đại
dương có cái đẹp của nó mà chỉ có những người đi biển mới hiểu được.
Vân chẩu môi cong cớn:
-Mới đi biển được vài chuyến rồi làm tàng. Biết nguời ta hay say sóng không dám
đi biển nên đặt chuyện ra oai, nếu có thằng Hồng hay thằng Đô ở đây không biết
bạn có tiá lia hay không?
Nàng không nhìn thẳng Tân, mặt ngước nhìn ra xa. Sóng vỗ sát bờ, những tia nước
tạt vào bờ đá văng tung tóe làm thành mảng trắng nhạt dần, để lại vết ướt trên
đám rêu xanh đang chuyển màu. Bầu trời buổI sáng trong xanh, những đám mây tụ
lạI từng cụm đang chuyển dần về phía chân trời báo hiệu một ngày quang đãng,
từng ngọn gió mang không khí đại dương thổI tốc vào bờ. Vân hít một hơi dài,
quay sang thấy Tân đứng bất động, nàng mỉm cười chữa thẹn:
- Ngày mai Vân xin ba nuôi cho đi biển một chuyến xem cảnh vật có đẹp như anh tả
hay không, để người ta khỏi khi dể?
-Thôi xin cô từ bỏ ý định đó đi. Ra tới đó ói thóc, ói lúa, ói mửa tới mật xanh,
ói banh túi mật lo làm mồi cho cá ăn còn đâu bình tĩnh để ngắm cảnh..... .phải
không em ?
Tân nhìn Vân thương hại, biết cô nàng bị nắm yếu điểm, đang im lặng chờ dịp để
tấn công lại. Tân nhặt hòn đá dưới chân dang tay liệng ra xa, các bọt nước trắng
văng tung tóe rơi nhẹ trên những vòng tròn đồng tâm đang dãn dần và từ từ biến
mất. Bên cầu nhiếu chiếc ghe đang neo bến, mọi người cố gắng đưa số cá, tôm lên
bờ để cân bán, tiếng rao ơi ới vang dội quang cảnh thật tấp nập. Nắng đã lên cao
những tia nóng đang rọi xuyên cành cây làm thành những bóng nhảy nhót trên mặt
cầu, che lấp bóng người trải dài di động. Tân nhìn những giọt nắng lung linh
đang chảy ngang màng tai và chuyển dần xuống cần cổ trắng ngần của Vân mà lòng
dâng cảm giác lạ. Mình đã thương nàng rồi sao? Tân thầm nghỉ. Hôm nay nàng đẹp
thật. Vân có vầng trán cao, tóc búi ngược ra sau, hiện rõ nét duyên dáng, nhí
nhảnh, dễ thương, với gương mặt trái soan, nhất là đôi mắt tròn đen láy thu hút
lòng chàng.
Tân chợt cười. Vân xoay qua bắt gặp vội hỏi :
- Có gì bí mật mà cười vậy ?
-Đang cười em đẹp với đôi mắt đen tròn tưạ... hai hột nhãn như vừa lượm dưới đất
gắn lên, con gái xóm vườn có khác.
Vân chống chọi:
- Ngưới ta có cầu chứng đàng hoàng, đừng nói thêm nha bạn, của thiệt đó.
Tân nghiêm nghị nhìn khoảng trời xa, đại dương rộng bao la, biển trong xanh,
những ngọn sóng cứ vỗ ào ạt không ngừng và tiêp tục tuôn vào bờ. Một chốc lâu,
quay lại nhìn Vân, nàng đang cố gở những sợi tóc rối bay lòa xòa trước trán,
chàng khẽ nói:
- Nầy Vân!
- Dạ !
- Anh yêu biển vô cùng , sau nầy nếu có dịp, anh sẽ xin vào Hải Quân để vừa đền
ơn tổ quốc, vừa thỏa được chí tang bồng hồ hải, có dịp đi đó đây và mỗi buổi
chiều được ngắm cảnh mặt trời lặn.....
- Thiệt hả !
Thấy Tân im lặng, nàng giễu cợt:
- Vậy là từ đây " Với biển cả anh là thủy thủ... ù ..ư... phải không" ?
Tiếng ừ...ư nàng ráng ngân và kéo dài, sau đó nàng ngâm tiếp bài thơ:
Đường nào dài bằng đường...... Trần Hưng Đạo,
Lính nào xạo.... bằng lính Hải Quân,
Thương em anh hảy thật lòng,
...............................................................................
Vân vừa chạy vừa ngâm nga, dù mất hút ở cuối đường, nhưng tiếng nàng vẫn vang
đâu đây, Tân mĩm cười với bài thơ dân gian và hành động nhí nhảnh của nàng mà
lòng dâng lên cảm giác ấm áp dù chưa tỏ tình với nàng lần nào.
***********
Chiếc ghe 6 blốc đầu bạc rung từng hồi từ từ tách bến lui ra giữa dòng sông, bên
kia cồn neo bến đứng đợi, sau khi công an cấp giấy, cho phép những người có tên
trong danh sách rời VN theo diện vượt biên bán chánh thức. Trên bờ cảnh hổn loạn
xảy ra, giữa người đi kẻ ở lại, những lời dặn dò, những cái bắt tay từ giã đầy
nước mắt, bên cạnh một số người gan dạ vào giờ chót dùng số vàng hiện có, lo lót
cho công an để được xuống ghe nhỏ qua cồn tránh điểm danh. Mặc dầu chính quyền
từng đứng ra tổ chức nhiều chuyến chu đáo nhưng cảnh chen lấn vẫn xảy ra, gia
đình nào cũng muốn xuống trước, không muôn bị bỏ lại với bất cứ lý do nào, đây
là kinh nghiệm của những người đi trước. Hết sắp hàng, rồi điểm danh, thấy danh
sách chưa đúng, lại điểm danh rồI sắp hàng. Nhiều cái đầu lố nhố đứng lên, ngồi
xuống, bóng người xiêu vẹo, tên bộ đội vai mang AK đi tới đi lui, cánh tay dang
ra đếm từng hàng một, miệng cứ lẩm bẩm:
- Nạ thật, sao nại rư lăm đầu !
Thằng sĩ quan công an đang chờ đàn em báo cáo, nóng ruột đốt Vàm Cỏ hết điếu nầy
tới điếu khác, một tay cầm xấp hồ sơ dầy cộm, tay kia lau mồ hôi ở trán và cổ
liên tục, mặt đỏ hừng hực, cau có. Cho tới gần xế chiều, chỉ mới xong 4 toán, số
còn lại gom vào một toán nhỏ chờ ghe để sang sông. Tân và thủy thủ đoàn được đưa
xuống ghe đăng ký trước, sau khi công an kiểm soát kỹ toàn diện cho vấn đề an
ninh, chắc chắn ghe không có tàng trữ vũ khí và chất nổ.
Làm việc dưới ghe gần năm qua, với nhiệm vụ tài công, được chủ ghe ưu đãi, trọng
dụng, Tân toàn quyền huấn luyện thủy thủ đoàn và tìm mua các dụng cụ hải hành
vừa ý mình. Hải bàn phải to và chính xác, Tân sáng chế thêm vòng xoay bằng đồng
đặt phía ngoài la bàn để nhắm hướng đối vật, chấm tọa độ. Ngoài ra những lần ghe
chạy thử đường trường, mỗi lần vận tốc thay đổi theo khoảng đường đi đều được
ghi chú tường tận kể cả vị trí các hàng đáy, và các phao ở cửa biển mà trước đó
chưa nhật tu trên hảI đồ. Mọi thứ chuẩn bị xong chờ ngày lên đường. Tân nhìn lại
bầu trời lần cuối. Quê hương mình tuyệt đẹp, từng hàng dừa xanh nghiêng mình soi
bóng lung linh, những lục bình trôi dào dạt bên bờ, xa xa vài mái nhá ven sông,
khói chiều lơ lửng bay trong gió, các trẻ em nô đùa vô tư lự. Nắng quê hương lúc
nào cũng ấm, tình người lúc nào cũng thân thiện nhưng tại sao phải chia ly, có
cảnh biệt ly nào mà hoan hỷ ? Thời gian dài ở quân trường, 5 năm phục vụ trong
hải quân giúp chàng thực hiện được giấc mơ và học hỏi nhiều kinh nghiệm hảI hành.
Nhưng khoảng thời gian qúa ngắn chưa đủ để một thanh niên hiểu cặn kẻ ý thức hệ
chiến tranh và làm trọn trách nhiệm với tổ quốc. Cuối cùng, chiến tranh đột ngột
chấm dứt gây ngạc nhiên, uất hận, luyến tiếc cho mọi người. Ngày trở về từ trại
cải tạo chẳng sung sướng gì. Tân chứng kiến cảnh tan nát của gia đình, cha chàng
lâm trọng bịnh sau đó chết trong lao tù, 1 đứa em vẫn còn bị giam sau chuyến
vượt biên có vũ khí bị đổ bể, ghe bị tịch thu, nhà bị quản lý, ấp xóa tên hộ
khẩu của tất cả những người trong nhà. Không gì đau khổ cho bằng nơi chôn nhau
cắt rún của mình mà không được lưu trú, chánh quyền từ chối cấp giấy vô hộ khẩu,
Tân tạm di chuyện về nhà bà con, một xã nhỏ lân cận ngọai ô Saigon để sinh sống.
Một buổi chiều Tân hẹn Vân ở bãi dâu, nơi mà từ lâu vắng bóng người, lưa thưa
vài cặp tình nhân hẹn hò trên những tảng đá rong rêu xanh rì, dưới rặng cây che
khuất.
- Bãi biển vẫn như xưa, nhưng mà vắng qúa hở em? Tân thì thầm hỏi.
- Chế độ mới,mọi vật không thay đổi, chỉ có con người thay đổi mà thôi. Vân tiếp:
người người cơm không đủ no,mặc không đủ ấm làm gì có thời giờ ra tắm biển?
Tân nhìn những bọt biển trôi dạt vào bờ, các ngọn sóng cứ vỗ không ngừng làm
thành đóa hoa biển nở to, dần dần lan rộng, sau cùng để lại khoảng trống ướt
trên bãi, xóa nhòa các vết tich trước đó. Xa xa vài cánh chim trời bay lượn,
thỉnh thoảng kêu lên vài tiếng nho nhỏ, phia sau mặt trời sáng rực đang dần dần
chìm xuống chân trời.
- Nhiều buổi chiều trống trải, sau giờ dạy học, em thường ra đây tìm không gian
thanh tịnh, nhìn biển của anh và nhất là thích ngắm cảnh mặt trời lặn như lúc
nầy, giờ đây em mới biết, ngoài cái động bon chen xô bồ, còn có cái tĩnh làm tâm
hồn con người thoải mái, nhẹ nhàng hơn. Vân ngẩng đầu nhìn lên cao, đôi chim
trời tung tăng bay lượn giữa bầu trời bao la, bên dưới mặt biển phản chiếu đủ
màu trên những ngọn sóng lăng tăng, một buổi chiều thật đẹp, nàng hít một hơi
nhẹ, nhắm mắt từ từ tựa đầu trên vai Tân để nghe tiếng đập của con tim, để nghe
biển hát và tiếng sóng vỗ của đại dương ..............
Giọng la hét khàn khàn đầy chất nhựa thuóc vang dội và tiếng súng nổ của thằng
bộ đội gác ở đầu cầu làm Tân gìựt mình hướng về đuôi ghe nơi có vài người cầm
súng tuôn chạy xuồng:
- Bắt chúng nại, định vượt biên hả ?
Ánh đèn pha rọi thẳng về phía có tiếng động, chỉ thấy chiếc xuồng nhỏ lềnh bềnh,
vài tiếng đập nhẹ rung động mặt nước yên lặng, bóng ngưới biến mất, mọi người
hồI họp, chờ đợi.
Tân đang tập họp thủy thủ đoàn, mà cũng phì cười với gương mặt khẩn trương của
thằng bộ đội. CuốI cùng mọi người được điểm danh không biết lần thứ mấy, từ cồn
lần lượt xuống ghe, Vân và Định (em trai Vân) có mặt trong lúc nầy. Chiếc ghe
sau khi được tân trang từ một ghe đánh cá trở thành ghe chở hành khách với 2
tầng hầm, dự trù chở 150 nay vượt hơn số lượng 20 người do công an gỡi, nên chổ
ngồi chật chọi hơn. Tới gần nửa khuya, mọi việc xong xuôi, giỏ xin tiền của bọn
công an đặt ở đầu cầu cũng đã đầy ấp hình bác Hồ nhìn thẳng, vì ai cũng nghỉ từ
đây không còn cơ hội xài nữa và lúc nầy ghe từ từ tách bến. Bên kia bờ, ánh đèn
vàng hiu hắt, khô cằn không đủ sáng từ cột đèn rọi xuống đám người thân nhân lố
nhố, kẻ đứng người ngồi, kẻ nằm, người đi tới lui như không yên tâm, để rồi sau
cùng vẫy tay chào biệt, người trên bờ, kẻ dưới ghe tất cả cùng chung ý nghỉ
..bao giờ sẽ gặp lại.
Gần sáng hôm đó theo hướng dẩn của ghe công an, được lệnh miệng phải thu nhận
thêm 40 người nữa tại cửa biển, lần nầy do công an biên phòng gởi. Tân xoay qua
hỏi ông Chương, chủ ghe:
- Sao không cho tôi biết trước, tôi có thể cho ghe vọt luôn, bọn họ rượt sao
kịp.
- Mình bỏ biết bao công lao và của cải rồi, đừng để chuyện nhỏ mà gây trở ngại
cho mọi người, vả lại bọn họ có vũ khí đó. Ông Chương phân trần.
Tân cãi lại:
- Nếu biết trước ghe chở quá só lượng tôi sẽ không đi chuyến nầy đâu ?
Nhìn chủ ghe gãi đầu....Tân thấy mình cũng lỡ lời, chuyện xảy ra ngoài ý muốn,
vả lại gia đình ông Chương cũng đi trên chuyến nầy. Chàng lắc đầu xoay người
nhìn lại quê hương lần cuối. Vũng Tàu trước mặt, hàng dừa xanh chạy dài dọc theo
bãi trước, các quán cóc im lặng vắng người, mọi người còn chìm trong giấc ngủ,
chỉ có vài ghe đánh cá đang neo bến Cầu Đá, một vài bóng lay động. Phía trên
núi, ngọn hải đăng vẫn nằm sừng sững vài giây chớp tắt chói sáng, phía xa dinh
ông Thượng chênh vênh nàm giữa lưng núi chìm trong màn sương của buổi sáng. Tân
nắm tay Vân, cả hai nhìn lại nơi chồng chất đầy kỷ niệm của hai đứa từ tuổi ấu
thơ cho đến lúc trưởng thành của thời gian đẹp nhất đầy dấu chân của hai người.
Những bờ biển với bãi cát trắng mịn từ bãi dứa, bãi dâu, bãi trước, đến bãi sau,
bãi ô quắn là nơi hò hẹn đẹp nhất nay chỉ còn là kỷ niệm, như con đường vòng núi
lớn đầy lá me bay mỗi khi gió biển thổi thốc vào, bên trên là Thích Ca Phật Đài
nơi thăm viếng của khách thập phương mà từ đó có thể thấy bao quát vùng biển
trước mặt. Có cái gì ươn ướt trên mắt Vân, nàng xoay mặt đi để tránh cái nhìn
của Tân, trước khi chàng cho ghe thẳng hướng ra khơi.
Từ tọa độ đầu tiên theo ba hướng đối vật và tiếp tục mỗI 10 phút, hướng gió và
sóng biển ảnh hưởng đến độ dạt, Tân dùng các chi tiết vẽ đường đi theo hải phận
quốc tế trên hải đồ, bởi vì đi cận duyên sẽ dễ gặp hải tặc Thái Lan hoặc ghe
cướp Mã Lai. Cho đến chiều, Vũng Tàu chỉ còn là bóng mờ, Tân kiểm sóat lại tọa
độ lần nữa trước khi cho ghe chạy theo hướng phỏng định. Biển bắt đầu động mạnh,
những cơn sóng làm chiếc ghe nhồi lên xuống không ngừng, nước ngập mũi ghe,
không kịp để thoát ra ngoài, tiếng nôn mửa vang dội và mùi dầu xanh nồng nặc.
Vân lúc nầy mặt mày xanh xao, nàng đã mửa đến khi không còn thức ăn nôn ra
ngoài, ủ rủ trong buồng lái, bên cạnh chiếc ghế Tân ngối lái, thều thào như muốn
nói. Tân cũng mệt lắm rồi, hôm nay là ngày thứ 2, lênh đênh trên biển, xuôi nam
theo hướng định trước ,gặp đủ loại tàu vượt qua, nhưng chẳng chiếc nào ngừng để
cứu vớt. Phần chiếc ghe chở quá trọng lượng, di chuyển chậm dần,mặt nước và mặt
ghe cách nhau chỉ vài gang tay, mọi người cầu trời cho chuyến đi bình yên. Cuối
ngày thứ 3 gặp dàn khoan dầu, nỗi vui mừng trên mặt mọi người, nhưng không lâu
họ cho biết chỉ cung cấp thực phẩm, thuốc men, cho dầu cặn và đuổi đi. Tân xin
toạ độ của dàn khoan trước ghe khi bị cắt dây. Nhờ vị trí đó,Tân biết chính xác
toạ độ hiện tại vẽ lại đường đi quyết định xuôi nam đến Nam Dương. Hai ngày sau,
biển động rất mạnh, chiếc ghe hầu như không tiến bao nhiêu .Vỏ ghe bắt đầu kêu
kẽo kẹt, sau đó tiếng la từ khoang chứa hành khách vang dội, đáy ghe bị bể, mọi
người chen nhau di chuyển lên trên để ra khỏi hầm, nước tràn vào từ mũi và
khoang trước. Vì tình trạng rối loạn, không ai chủ tâm giữ chặt chỗ bể, chiếc
ghe nhanh chóng chìm trong làn nước tối tăm...........
Khi Tân tỉnh dậy thấy mình nằm trong căn chòi, chung quanh vài chục người nằm
thoi thóp.Tân không rõ chuyện xảy ra, chỉ nhớ lúc nước tràn vào buồng lái, vội
nắm tay Vân nhưng luồng nước quá mạnh, đẩy mọi người ra ngoài và sau đó không
thấy Vân và Định nữa.Tân và một số người được ghe câu của dân địa phương cứu đưa
về đảo Terampa, một quần đảo của Nam Dương, cách đảo Galang một ngày đường. Ngày
ngày trên bãi biển vắng người, bên những ghềnh đá im lặng cô liêu, Tân rã rời
chờ đợi Vân trở về dù hiện thực hay ảo tưởng. Cũng là bãi biển nhưng sao thật xa
lạ, người đi kẻ ở lại có gì vui, hai chử Tự Do chàng phải đánh đổi sinh mạng Vân
và cả bản thân mình. Nhiều buổi chiều đi dọc theo bờ biển hy vọng một dịp may
nào đó Vân có thể về đảo bình yên, nhưng càng ngày càng ít cơ may. Một tháng
trôi qua trong nhung nhớ, chàng thật sự đã mất Vân, tuyệt vọng theo ngày tháng
dù cảnh chiều tà trên hải đảo thật đẹp nhưng chẳng còn ý nghỉa gì nữa. Tân không
tin mình vẫn còn sống sót trên chuyến ra khơi định mệnh ,một phiến đời thoáng
qua, chưa có dịp cùng Vân ngồi bên ghềnh đá nghe biển hát và nhìn mặt trời lặn
trong khung cảnh tự do. Từ đây chàng chắc chắn mất Vân vĩnh viễn. Mỗi ngày ngồi
đây một mình, da thịt se lại, lòng chàng khẻ rung động với những kỷ niệm lần
lượt trở về, chàng thì thầm như muốn nói với Vân:
Quen em rừng lá chưa thay
Yêu em từ độ chim bay cuối trời
Sắt se từ chuyến ra khơi
Rừng nay thay lá, em nơi phương nào ?
Tx2 Võ Kiêm Huy
TRANG CHÍNH | TRANG TRƯỚC |