K.C. sÜu tÀm
I - Tiểu Sử
Khi các sáng lập viên đang tìm một điạ điểm thích hợp cho trường đại học Hải Quân, bộ trưởng Hải Quân lúc bấy giờ là ông
GeorgeBancroft quyết định chuyển trường này đến một nơi lành mạnh và biệt lập ở Annapolis để các Sinh Viên Sĩ Quan tránh khỏi những cám dỗ
và ồn ào của thành
phố lớn đông đúc. Tiền thân là Hải Quân Học Viện Philadelphia, bốn trong bẩy
giáo sư đầu tiên
của ban giảng huấn đến từ Philadelphia.Trong thời gian lập quốc đã từng có những
trường Hải Quân nhỏ ở các thành phố New York; Norfolk, Virginia và Boston,
Massachusetts.
Hải Quân Hoa-Kỳ được thành lập trong thời cách mạng khi cần có hải lực để đương
đầu với Hải Quân Anh. Nhưng sau thời kỳ cách mạng, Hải Quân bị giải tán vào năm
1785 vì quốc hội chú trọng hơn vào nền kinh tế.
Hải lực Mỹ nằm bất động khoảng thập niên, cho đến năm 1794 Tổng thống George
Washington thuyết phục quốc hội chuẩn phê một hải lực mới để chống lại sự bành
trướng của hải tặc ngoài khơi.
Các chiến hạm đầu tiên của hải quân Mỹ được hạ thủy vào năm 1797; trong số đó có
những chiếc nổi tiếng như United States, Constellation, và Constitution. Năm
1825 Tổng thống Quincy Adams yêu cầu quốc hội thành lập một trường Hải quân để
đào tạo những sĩ quan hải quân đắc lực có kiến thức khoa học. Tuy nhiên những đề
nghị này mãi hai mươi năm sau mới được thực hiện.
Ngày 13/9/1842, chiến hạm Somers khởi hành từ Hải quân công xưởng Brooklyn, một
trong những chuyến hải hành đáng ghi nhớnhất của lịch sử hải quân Hoa-kỳ. Đây
là một huấn luyện hạm để huấn luyện các thiếu niên tình nguyện huấn nghiệp với
hy vọng các em sẽ chọn hải nghiệp. Tuy nhiên vì kỷ luật suy kém trên chiến hạm
Somers, tòa án quân sự trên tàu đã kết án SVSQ Philip Spencer và hai đồng lõa
chính về tội âm mưu nổi loạn. Cả ba đều bị treo cổ trên cột buồm và biến cố này
làm mất tin tưởng vào sáng kiến gửi các SVSQ xuống chiến hạm để thực tập. Tin
nổi loạn trên tàu Somers làm chấn động toàn quốc.
Nhờ những nỗ lực của bộ trưởng hải quân Bancroft, ngày 10/10/1845 trường Hải
quân được thành lập, ngoài sự tài trợ của quốc hội, tại căn cứ Lục quân Fort
Severn ở Annapolis, Maryland với một khóa có 50 SVSQ và bẩy giáo sư. Chương
trình huấn luyện gồm có toán học, hải hành, hải pháo, máy hơi nước, hóa học,
triết học, Anh và Pháp văn.
Năm 1850 trường trở thành Đại học Hải quân. Chương trình huấn luyện mới đòi hỏì
SVSQ phải theo học bốn năm tại trường và huấn nghiệp trên các chiến hạm vào mỗi
mùa hè. Chương trình này là căn bản của chương trình huấn luyện tiến bộ và tinh
vi ngày nay.
Theo thời gian, Hải quân lớn mạnh, trường đại học Hải quân cũng bành trướng theo.
Trường sở rộng từ 10 mẫu tăng lên 338 mẫu, SVSQ từ 50 tăng đến 4000.
Các kiến trúc mới với đá xanh thay thế các tòa nhà cũ bằng gỗ của căn cứ Fort
Severn.
Từ năm 1933 quốc hội chuẩn phê Trường được cấp bằng Cử nhân khoa học cho các
SVSQ tốt nghiệp. Chương trình học cố định cho tất cả SVSQ cũng được thay thế
bằng một chương trình căn bản cộng thêm 18 ngành chuyên môn, nhiều môn nhiệm ý
và khảo cứu tân tiến.Từ đó, sự phát triển của trường SQHQ cũng phản ảnh lịch sử
của quốc gia. Trường SQHQ cũng thay đổi trên phương diện văn hóa và kỹ thuật
theo đà tiến của quốc gia.
Chỉ trong vòng mấy thập niên, Hải quân đã chuyển từ một hạm đội tàu buồm và máy
hơi nước đến một hạm đội tân tiến với tàu ngầm, chiến hạm nguyên tử và phi cơ
siêu âm thanh. Trường SQHQ cũng thay đổi, đem đến cho những SVSQ một chương
trình văn hóa cao độ và chuyên nghiệp cần thiết cho một sĩ quan hải quân .
Trường SQHQ bắt đầu thu nhận nữ SVSQ từ năm 1976 khi quốc hội chấp thuận cho phụ
nữ nhập học các trường đại học quân sự. Phụ nữ chiếm chừng 13% đến 14% tổng số
SVSQ năm thứ nhất và theo cùng một chương trình huấn luyện như các bạn nam phái
cùng lớp.
II- Đại Cương :
Hiện nay trường SQHQ là trường đại học chương trình bốn năm với mục đích rèn
luyện các sinh viên sĩ quan về đạo đức, tinh thần cũng như thể xác để trở thành
những sĩ quan chuyên nghiệp trong Hải quân.
Với diện tích 338 mẫu, trường ở giữa mạn Sông Severn và khu phố di tích lịch sử
của Annapolis, thủ đô tiểu bang Maryland. Annapolis cách Washington D.C. 33 dặm
về phía đông và 30 dặm đông nam của Baltimore.
Với tên gọi The Yard , trường có những hàng cây trồng dọc theo tường gạch, những
kiến trúc kiểu thời phục hưng Pháp (thế kỷ 14,15 và 16) xen lẫn các cơ sở hiện
đại nằm trên địa thế nhìn ra vịnh Chesapeake.
Những dẫy nhà của cư xá Bancroft Hall, nhà thờ và những kiến trúc xây cách đây
hơn 90 năm đã giúp trường này trở thành một di tích lịch sử quốc gia. Những chỗ
như là Alumni Hall dùng cho các sinh hoạt của lữ đoàn SVSQ, thư viện Nimitz với
hơn 500,000 bộ sách, khu kỹ thuật Rickover Hall, phòng thí nghiệm hải học
Hendrix cung cấp những tài nguyên giáo dục cực kỳ tân tiến.
Vào khoảng 4000 nam nữ sinh viên sĩ quan đại diện tất cả các tiểu bang và vài
chục quốc gia thân hữu.
Ngoài những môn học chính về văn hóa và chuyên nghiệp, chương trình giảng huấn
gồm có 18 ngành: 8 ngành kỹ sư, 6 ngành khoa học, toán và điện toán và 4 ngành
nhân văn và xã hội học. Các môn chuyên nghiệp gồm có: vũ khí cá nhân, căn bàn
quân sự, hải nghiệp, hải hành, chiến thuật, kỹ thuật hải quân, hải pháo, lãnh
đạo, kỷ luật và quân luật . Ngoài ra mỗi mùa hè các sinh viên còn được huấn
luyện tại các căn cứ hải quân và chiến hạm thuộc các hạm đội.
Các sinh viên có thể chọn những môn thể thao liên trường trong số 21 môn cho nam
giới, 9 cho nữ giới hoặc 12 môn thể thao nội trường và 14 hội thể thao nữa .Cũng
còn có hơn 100 sinh hoạt khác như âm nhạc, kịch nghệ, nhẩy dù, lặn sâu, biện
luận, các nhóm tôn giáo và các nhóm thiện nguyện .
Sinh viên tốt nghiệp được cấp bằng cử nhân khoa học trong ngảnh chuyên môn và
phong cấp thiếu úy Hải quân hoặc Thủy quân lục chiến trừ bị và phục vụ ít nhất
là 5 năm . Những năm chắc chắn đầy hứng thú và lợi ích cho một sĩ quan trong
quân chủng.
III- Phạn Xá :
Đại sảnh King (Thủy sư đô đốc Ernest J. King) là tên phạn xá của sinh viên sĩ
quan.
Chỉ có một sự tổ chức hoàn hảo mới có thể tránh được cái hỗn loạn khi cả 4000
người ngồi vào bàn ăn cùng một lúc
trong một diện tích 55,000 bộ vuông (square
foot). Thức ăn được dọn ra trong vòng năm phút, biểu lộ sự hiệu quả của phạn xá
sinh viên sĩ quan. Thống kê của công tác này thực đáng khâm phục, từ khả năng
của những dụng cụ trong nhà bếp cho đến phòng rửa bát, lo cho hơn 40,000 cái
muỗng nỉa, đĩa bát và ly tách cho một bửa ăn thường nhật. Nhân viên phạn xá
hoạch định, nấu nướng và dọn hơn 12,000 phần ăn mỗi ngày. Để hoàn thành công tác
này, họ phải dùng những dụng cụ tự động có khả năng nấu nướng số lượng thức ăn
rất lớn. Chẳng hạn như hai chảo chiên tự động có thể chiên 2000 cân Anh (pounds)
tôm trong vòng một giờ, hai lò tự động nướng được 3000 cái bánh mì hamburger một
giờ, hai lò nướng khác có thể chứa được 80 khay và 320 con gà tây (12 đến 16 cân)
một lúc và 6 nồi dùng hơi nước để hâm nóng chừng 3000 lít canh (soup). Hai mươi
xe chuyển thức ăn (mỗi xe cho 20 bàn) duy trì nhiệt độ của những khay thức ăn ở
140 độ F. Chương trình ẩm thực qui mô này được thực hiện với một hiệu quả đáng
kể và tiêu chuẩn cao. Mối quan tâm lớn nhất của nhà bếp là phẩm chất của thức ăn
và sự phục dịch các SVSQ. Họ phải luôn thay đổi thực đơn, biến chế cách trình
bày các món ăn để tăng phần hấp dẫn, nhưng không vì thế mà quên đi mức độ dinh
dưỡng tối cần cho SVSQ.
Tổng lượng dinh dưỡng hàng ngày cho mỗi SVSQ phỏng định chừng 3500 đến 4000 đơn
vị năng lượng (calories) với giá biểu ấn định là 4.75 dollars một khẩu phần. Các
thứ thịt được dùng là loại hạng nhì (choice grade), rau hạng A (A grade fancy),
bơ sữa bao gồm 4000 lít sữa tươi, được cung cấp từ trại chăn nuôi của trường
cách đó vài dặm. Trung bình một ngày các SVSQ tiêu thụ hơn 4000 lít sữa, 4000
cân thịt, 2000 cân rau cải, 4000 cân khoai tây,1200 cái bánh mì, 720 cái bánh
trái cây (pie) và 1200 lít kem làm tại nhà bếp ở trường.
Thực đơn hàng ngày đại để như sau:
1- Điểm tâm: Chả trứng, thịt ba rọi nướng, khoai tây chiên, cháo ngũ cốc trong
mùa lạnh, trái cây tươi, các loại ngũ cốc ăn ngay, bánh donut, bánh ngọt và bánh
mì, cà phê và chocolat nóng. Mỗi bàn đêu có sẵn sữa, nước cam và các gia vị cần
thiết.
2- Ăn trưa: thường là bánh mì sandwich. Các món tráng miệng được để sẵn trên bàn
cùng với sữa, rau, bánh mì, bánh lạt. Mùa đông có canh nóng. Trên bàn lúc nào
cũng có bơ đậu phụng và mứt cho những người kén ăn.
3- Ăn tối: Thức ăn cho bữa tối cũng tương tự như bữa trưa, nhưng món chính có gà,
thịt bò hoặc cá kèm với một món rau, khoai tây hay cơm.
Các món được SVSQ ưa chuộng nhất vẫn là ức gà nướng, pizza và hamburger.
IV- Huấn Luyện Mùa Hè.
Mùa hè đem đến cho sinh viên sĩ quan cái nhìn tận mắt ‘’hải quân trên biển’’ khi
họ rời mái trường Annapolis trình diện thực tập ở các căn cứ hải quân hay các
chiến hạm. Từ khi trường sĩ quan hải quân thành lập năm 1845, SVSQ đã được huấn
luyện hải nghiệp trên biển. Chủ trương đưa các SVSQ xuống huấn luyện trên các
hạm đội vẫn còn được áp dụng cho đến ngày nay. Theo như cẩm nang huấn luyện mùa
hè của SVSQ : ’’ sự giám định trong thời gian huấn luyện mùa hè rất quan trọng
vì được thực hiện trong một môi trường không thể tạo được trong lớp học hay
khung cảnh giáo huấn nào khác’’.
Chương trình vừa được cải tổ cho sinh viên năm thứ hai gồm có hai phần: Ba tuần
lễ hải hành trên các tầu tuần của trường và ba tuần huấn luyện về chiến thuật
hải quân tại trường. Chương trình này gồm có các phần về Thủy quân lục chiến,
chiến tranh đặc biệt, luật phòng vệ duyên hải và hành quân liên hợp. Họ cũng
tình nguyện vào chương trình hải hành như hải đội huấn luyện hải nghiệp đi đến
những bến ở vùng New England trong khi những sinh viên khác trên các tuần đỉnh
đi đến Boston và New York. Trong thời gian này họ học từ hải nghiệp căn bản trên
chiến hạm cho đến việc hải hành tập đội. Huấn luyện trên bờ gồm các môn như: vũ
khí, phòng tai và cứu hỏa.
Chuyến tuần dương của sinh viên năm thứ ba cho họ những khái niệm để chọn ngành
khi ra trường. Đầu tiên là hai tuần huấn luyện về phi hành hải quân tại
Pensacola, Florida và về tiềm thủy đĩnh ở King Bay, Georgia. Sau đó là bốn đến
tám tuần hải hành trên các chiến hạm từ hàng không mẫu hạm và khu trục hạm cho
đến tiềm thủy đĩnh, để các sinh viên biết đến những gay go của những ngày đi
biển. Họ sẽ được biết đến đời sống của một thủy thủ khi làm việc chung với một
trưởng ban trên tàu.
Mùa hè thứ tư, sinh viên được chỉ định xuống các chiến hạm ở Địa Trung Hải, Đại
Tây Dương và Thái Bình Dương cho chuyến hải hành năm cuối cùng. Họ làm việc với
sĩ quan cấp úy như người đồng hành, đi phiên hải hành, ăn và ngủ trong khu sĩ
quan; nói chung là được đối xử như một sĩ quan cấp úy. Những sinh viên muốn trở
thành sĩ quan Thủy quân lục chiến sẽ được gởi huấn luyện tại Quantico, Virginia
trong bốn tuần để tham dự các cuộc thực tập và huấn luyện cho sĩ quan cấp úy,
sau đó bốn tuần nữa ở các đơn vị Thủy quân lục chiến biệt phái hạm đội tại các
căn cứ duyên hải miền Đông và Tây Hoa Kỳ.
Độ chừng một phần ba sinh viên năm thứ ba và năm thứ tư cũng hoạt động với sinh
viên năm thứ nhất vào tháng bảy và tháng tám. Giai đoạn huấn luyện này gọi là
mùa hè năm thứ nhất, hướng dẫn các sinh viên năm thứ nhất về đời sống ở trường
sĩ quan hải quân cũng như trong hải quân. Đối với những sinh viên làm cán bộ cho
khóa đàn em, đây là một kinh nghiệm lãnh đạo quý báu nhất.
Trong khi đa số sinh viên dùng phép nghỉ mùa hè để về thăm gia đình hay đi nghỉ
mát, một số tình nguyện đi huấn luyện nhảy dù ở căn cứ Fort Benning, Georgia hay
các môn chuyên nghiệp khác
Tuy sân trường sĩ quan hải quân im lặng gần hết mùa hè, lữ đoàn sinh viên vẫn
hoạt động, đi khắp thế giới để huấn luyện chuyên nghiệp. Đây là một chương trình
khó nhọc cho các sinh viên sĩ quan nhưng tất cả đều thấy thích thú.
( Trích dịch từ tài liệu của hội Sinh-Viên Sĩ- Quan Hải-Quân Hoa-kỳ 1997)
TRANG CHÍNH | TRANG TRƯỚC |